Việc tích hợp AI vào kiểm định chất lượng giáo dục là yếu tố tất yếu của chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu của Nghị quyết 71.
Việc tích hợp AI vào kiểm định chất lượng giáo dục là yếu tố tất yếu của chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu của Nghị quyết 71.
Hội thảo “Xu thế kiểm định chất lượng giáo dục giai đoạn 2026-2030 với sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo” diễn ra ngày 16.10, tại Hà Nội.
Đây là một hoạt động trong khuôn khổ lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục - Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (CEA-AVU&C).
GS.TSKH Bành Tiến Long - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) - cho rằng, việc tích hợp AI vào kiểm định chất lượng giáo dục đại học là yếu tố tất yếu của chuyển đổi số.
Theo ông, việc đưa AI vào kiểm định đem lại nhiều hiệu quả như: Tự động hóa dữ liệu (xử lý khối lượng lớn báo cáo, phát hiện bất thường); giám sát liên tục (theo dõi theo thời gian thực, cảnh báo sớm); minh bạch hóa (đánh giá khách quan, kết hợp blockchain chống giả mạo). Như vậy, mô hình kiểm định có thể chuyển đổi từ định kỳ sang liên tục.
Tuy nhiên, đi kèm đó là khó khăn, rủi ro về bảo mật, thiên vị thuật toán và yêu cầu kỹ năng vận hành cao.
Từ đó, ông Long cho rằng, để tích hợp AI vào hệ thống kiểm định chất lượng, Việt Nam cần một lộ trình chiến lược toàn diện, được xây dựng dựa trên các trụ cột nền tảng: Hành lang pháp lý, đạo đức; hạ tầng số và dữ liệu quốc gia; nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cùng với đó, cần cập nhật các bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng hiện hành để phản ánh tác động của AI, bổ sung các tiêu chí mới cho Việt Nam và đề xuất lên AUN-QA.
"Việc tích hợp AI không nhằm thay thế bộ tiêu chuẩn AUN-QA vốn đã được nhiều trường đại học Việt Nam áp dụng thành công và được quốc tế công nhận, mà là để làm giàu và nâng cao hiệu quả cho bộ tiêu chuẩn này" - ông phân tích và cho rằng, cần có sự nghiên cứu cách tiếp cận của các quốc gia, tổ chức giáo dục tiên tiến trên thế giới để học hỏi, tránh những sai lầm và xây dựng mô hình phù hợp với bối cảnh của mình.
Theo GS.TS Huỳnh Văn Chương - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GDĐT), các quy định mới trong bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã loại bỏ yêu cầu rườm rà, tập trung vào “tiêu chí điều kiện” như chuẩn đầu ra, đội ngũ, bảo đảm chất lượng nội bộ, yêu cầu minh chứng tác động thực tế, cho thấy kiểm định là quá trình cải tiến thực sự.
Đồng thời, tham chiếu chuẩn AUN-QA và các tổ chức kiểm định nước ngoài; cơ sở dữ liệu phải thống nhất; nâng cao tính tự chủ của cơ sở giáo dục đại học trong hoạt động bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục để gắn với học hiệu, xếp hạng, công nhận văn bằng, tín chỉ, hợp tác quốc tế…
Giai đoạn 2026–2030, ông Chương nhấn mạnh việc tái cấu trúc tổ chức theo hướng chuyên nghiệp; mỗi tổ chức cần có chiến lược trung hạn và dài hạn phát triển năng lực tổ chức, công nghệ và nhân sự.
Cùng với đó, thiết lập hệ thống quản lý chất lượng nội bộ, công khai quy trình, kết quả và khuyến nghị cải tiến; từng bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế, tham gia mạng lưới và ký thỏa thuận trao đổi kiểm định viên. Phát triển đội ngũ kiểm định viên chuyên sâu theo lĩnh vực đào tạo, có kỹ năng số, năng lực tư vấn cải tiến và khả năng đánh giá liên văn hóa,...
Bảo đảm chất lượng kiểm định chất lượng giáo dục
PGS.TS Nguyễn Phương Nga - Giám đốc Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục - Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam - chia sẻ, tính đến thời điểm hiện tại, sau 10 năm phát triển, trung tâm đã trao chứng nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục cho 88 trường đại học, học viện và trường cao đẳng sư phạm đã đạt tiêu chuẩn chất lượng và trao chứng nhận kiểm định chất lượng chương trình đào tạo cho 281 chương trình đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.
Trung tâm cũng đã đào tạo bồi dưỡng và cấp chứng nhận nghiệp vụ kiểm định viên cho 136 học viên; bồi dưỡng nghiệp vụ bảo đảm chất lượng và tự đánh giá để phục vụ kiểm định chất lượng giáo dục cho trên 10.000 cán bộ quản lý, chuyên viên và giảng viên của các cơ sở giáo dục.
Theo bà Nga, triển khai Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị, Trung tâm đã mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục có uy tín trên thế giới như THE-ICE, Australia, FIBAA, Cộng hòa Liên Bang Đức...
“Trung tâm sẽ cùng đồng hành với các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để góp phần triển khai thực hiện thành công mục tiêu của Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đó là đến năm 2030 “phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia” - bà Nga bày tỏ.
Đọc bài gốc tại đây.