Những thước phim kinh điển, những giai điệu tự hào, những tác phẩm văn học vượt qua bom đạn của 2 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã cho...
Những thước phim kinh điển, những giai điệu tự hào, những tác phẩm văn học vượt qua bom đạn của 2 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã cho thấy hành trình 80 năm đầy dấu ấn rực rỡ của ngành Văn hóa.
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Lao Động, Đại tá Đào Văn Phê - cựu chiến binh từng tham gia chiến trường Khe Sanh, Quảng Trị năm 1968 kể, những năm tháng chiến tranh trong hành trang của những người lính trẻ ra trận luôn có cuốn sổ chép đầy thơ.
Những người lính ngày ấy đã ra trận cùng thơ ca, âm nhạc. Văn hóa – nghệ thuật đã cùng dân tộc ca khúc ca bi tráng suốt hành trình của 2 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Hành trình rực rỡ của văn hóa, nghệ thuật cách mạng
Tuyên cáo ngày 28.8.1945 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong nội các quốc gia, Bộ Thông tin, Tuyên truyền được thành lập (sau đó ngày 1.1.1946 đổi tên là Bộ Tuyên truyền và Cổ động) - tiền thân của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay. Từ đó, ngày 28.8 hàng năm đã trở thành Ngày Truyền thống của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL).
Ngành VHTTDL đã có chặng hành trình 80 năm đồng hành cùng dân tộc, đi trọn một hành trình vẻ vang, rực rỡ và đầy tự hào, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân, vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Kể từ tháng 2.1943, tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La, Đảng đã thông qua Đề cương về Văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo. Đây được xem là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa. Đảng đề cao vai trò, sứ mệnh của lực lượng những người làm văn hóa, nghệ thuật.
Ba yếu tố quan trọng nhất của cuộc cách mạng văn hóa dựa trên Đề cương Văn hóa là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.
Trong đó, nghệ thuật (văn học nghệ thuật) là lĩnh vực quan trọng và tinh tế của văn hóa, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ, tinh thần yêu nước và chiến đấu của cả một dân tộc.
Sau Đề cương Văn hóa là Hội nghị Văn hóa lần thứ nhất diễn ra năm 1946, Hội nghị Văn hóa lần thứ hai diễn ra năm 1948, giới văn nghệ sĩ được đề cao hơn bao giờ hết vai trò sáng tác, tuyên truyền của mình.
Tinh thần sáng tác văn học nghệ thuật của dân tộc được đẩy lên cao. Mọi công tác văn hóa được kêu gọi tập trung tuyên truyền cổ động cho các nhiệm vụ kháng chiến. Giá trị nhân văn, chủ nghĩa yêu nước được đặt lên vị trí cao nhất.
Nhận thức được sứ mệnh lịch sử trên vai, mỗi văn nghệ sĩ đều phải dấn thân, nhập cuộc với tư cách của một chiến sĩ. Mỗi nghệ sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng.
Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), với phương châm “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, công tác báo chí, thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; các loại hình văn nghệ phát triển đa dạng, phong phú từ âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ thuật, sau đó là điện ảnh... nhanh chóng phát huy sức mạnh, cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của toàn quân toàn dân.
Trên các mặt trận văn hóa nghệ thuật, âm nhạc – văn học Việt Nam qua 2 cuộc chiến tranh vệ quốc đã cho ra đời những tác phẩm kinh điển của một thế hệ những nghệ sĩ tài hoa, xuất chúng.
Nơi ngòi bút, tiếng hát trở thành vũ khí chiến đấu
Năm 1945 với bước ngoặt lịch sử vĩ đại, thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám đặt nền móng cho giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập sáng 2.9 – khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Một kỷ nguyên mới của dân tộc đã bắt đầu.
Thời điểm ấy, trên mặt trận tư tưởng văn hóa, khí thế dân tộc, khí thế cuộc cách mạng hào hùng đã lưu dấu ấn mãi mãi qua những tác phẩm âm nhạc như: Tiến quân ca (Văn Cao), Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi), Mười chín tháng Tám (Xuân Oanh)... Trong đó, ca khúc “Tiến quân ca” đã được lựa chọn trở thành Quốc ca của nước Việt độc lập. “Tiến quân ca” cho đến nay vẫn là Quốc ca linh thiêng của dân tộc Việt Nam.
Trong 9 năm kháng chiến, từ 1945-1954, âm nhạc cách mạng Việt Nam phát triển rực rỡ với những ca khúc cổ vũ, hiệu triệu toàn dân, toàn quân xả thân cho cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, cho đến ngày có được chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954 thấm đẫm tinh thần thực tế, phản ánh cuộc chiến đấu gian lao và anh dũng, phản ánh cuộc sống vất vả nhưng lạc quan, cả dân tộc vững vàng vượt qua khó khăn, hy sinh mất mát, hướng đến ngày chiến thắng.
Đứng dưới cờ cách mạng, Xuân Diệu có “Ngọn quốc kỳ”, Nguyễn Huy Tưởng viết kịch “Bắc Sơn”, Chính Hữu có “Đồng chí”, Quang Dũng có “Tây Tiến”, Tố Hữu có “Việt Bắc”, Nguyễn Đình Thi có “Đất nước”...
Văn xuôi giai đoạn 1945-1954 cũng đạt đến đỉnh cao với nhiều tác giả xuất sắc như Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tô Hoài, Hồ Phương... Văn xuôi (truyện -ký) giai đoạn này tái hiện tội ác của thực dân và tay sai, đánh tan sự ảo tưởng lừa mị của chúng, từ đó đặt niềm tin vào thắng lợi cách mạng.
Giai đoạn 1954-1975, đất nước bị chia cắt, miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời chi viện cho chiến trường miền Nam.
Âm nhạc Việt Nam đạt đến đỉnh cao với dòng nhạc đỏ, nhạc cách mạng ngợi ca tình yêu quê hương đất nước, tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
NSND Thanh Hoa – người đã theo đoàn văn công phục vụ bộ đội chiến đấu dọc đường Trường Sơn từ năm 1970-1974 đã kể, năm ấy “tiếng hát át tiếng bom”, nghệ sĩ ra trận cùng các đoàn quân, mang tiếng hát – âm nhạc cổ vũ tinh thần chiến đấu.
Văn học giai đoạn 1954-1975 bám sát công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, và cuộc chiến đấu can trường của dân tộc trên các mặt trận quân sự.
Những câu thơ, “Có buổi vui sao cả nước lên đường”, “Đường ra trận mùa nay đẹp lắm/Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”... đã nằm trong ba-lô những người lính ra trận.
Tiếng hát, ngòi bút của mặt trận Văn hóa đã trở thành vũ khí, trở thành sức mạnh có khả năng hiệu triệu hàng triệu trái tim, vừa cổ vũ vừa an ủi, vừa động viên tinh thần chiến đấu vừa ngợi ca cuộc chiến phi thường, vừa là tiếng hô xung phong vừa là sự xoa dịu những đau thương dân tộc.
Hai cuộc chiến tranh vệ quốc đã cho thấy, ngành văn hóa – thông tin đã đồng hành, sát cánh cùng dân tộc, mang đến sức mạnh riêng biệt trên mặt trận của mình, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, hun đúc ý chí đấu tranh kiên cường và xây dựng niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Lực lượng văn nghệ sĩ, báo chí cách mạng đã hòa mình vào thực tiễn chiến đấu, “lấy bút làm gươm”, “lấy nghệ thuật làm vũ khí”. Các văn nghệ sĩ, nhà báo thực sự trở thành những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng”, trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc sáng tác để cổ vũ tinh thần kháng chiến.
Sự trưởng thành của ngành Văn hóa trong giai đoạn này thể hiện bản lĩnh chính trị, sự kiên cường, linh hoạt, khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Không chỉ là công cụ tuyên truyền, đấu tranh, văn hóa còn thực sự là một nguồn sức mạnh nội sinh mạnh mẽ, cổ vũ, thôi thúc quân và dân ta đánh thắng giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước.
Nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo đã ngã xuống trên các chiến trường để lại cho dân tộc những trang viết, tác phẩm, thước phim tư liệu vô giá.
Ngày 31.7.2007 lại đánh dấu một bước ngoặt lớn của Ngành: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (Nghị quyết số: 01/2007/QH12) trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Ủy ban Thể dục thể thao; tiếp nhận phần quản lý nhà nước về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Từ ngày 1.3.2025, Bộ tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, truyền thông từ Bộ Thông tin và Truyền thông.
Đọc bài gốc tại đây.