Truyện Kiều và Nam Bộ có mối lương duyên kỳ lạ. Không chỉ được cư dân đất phương Nam yêu quý đến mức muốn thưởng thức theo lối riêng của...
Truyện Kiều và Nam Bộ có mối lương duyên kỳ lạ. Không chỉ được cư dân đất phương Nam yêu quý đến mức muốn thưởng thức theo lối riêng của mình bằng cách cải biên nguyên tác thành các phó bản..., Truyện Kiều còn góp phần đặt nền móng khai sinh cho Nam Bộ loại hình nghệ thuật địa phương là cải lương.
Đặt nền móng cải lương Nam Bộ
Năm 1917, hưởng ứng trào lưu chấn hưng “sân khấu hát bội” đang theo lối mòn, cụ Lương Khắc Ninh (1862 - 1943) đăng đàn diễn thuyết đề tài “Cải lương hí nghệ” tại Hội Khuyến học Nam Kỳ (Sài Gòn). Thuật ngữ “cải lương” lúc đó được hiểu như “sửa đổi để cho trở nên tốt đẹp hơn”. Sau đó, tuồng cải lương “Kim Vân Kiều” của soạn giả Trương Duy Toản (1885 - 1957) ra đời và trình diễn tại rạp của thầy Năm Tú ở Mỹ Tho vào 15.3.1918.
Theo TS Nguyễn Thanh Phong - giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TPHCM), người có nhiều năm nghiên cứu về Truyện Kiều với vùng đất Nam Bộ, vở cải lương “Kim Vân Kiều” góp phần định hình cho cải lương trong thời kỳ “Cải cách hát ca theo tiến bộ; Lương truyền tuồng tích sánh văn minh”. Liên tiếp sau đó, nhiều vở cải lương lấy đề tài Truyện Kiều ra đời, như: “Kiều du thanh minh” của soạn giả Phạm Đình Khương; “Hoạn Thơ tróc Kiều” của soạn giả Trương Quang Tiền... Và suốt một thế kỷ qua, Truyện Kiều là tác phẩm văn học thu hút nhiều soạn giả chuyển tải thành kịch bản cải lương nhất.
Thống kê chưa đầy đủ, đến nay có ít nhất 13 kịch bản cải lương lấy cảm hứng từ Truyện Kiều. Không chỉ thu hút “những người muôn năm cũ”, như: Trương Duy Toản, Trương Quang Tiền, Phạm Đình Khương, Lê Công Kiền... mà còn lan tỏa đến thời hiện đại. Khoảng thập niên 60, cùng với sự vươn mình mạnh mẽ của sân khấu cải lương, làn sóng lấy cảm hứng từ Truyện Kiều cũng lan tỏa rộng trong giới soạn giả nổi danh, như: nhóm Hoàng Song Việt và Hoa Hạ, Viễn Châu và Thể Hà Vân; Việt Dung, Quy Sắc, Mộc Linh. Qua đó cho ra đời các vở cải lương để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả, như: “Kim Vân Kiều” (1971), “Trăng thề vườn Thúy” (1973), Vương Thúy Kiều (1989)...
Thông qua các vở Kiều, còn góp phần thành danh nhiều đào kép (nghệ sĩ) gạo cội của cải lương Nam Bộ, như: Út Trà Ôn, Phượng Liên, Tấn Tài; Bạch Tuyết, Thanh Sang, Hồng Nga, Bảo Quốc, Lệ Thủy, Vũ Linh... Đặc biệt hơn là nhiều cô đào nổi tiếng cũng gắn liền với thành công từ diễn xuất nhân vật Thúy Kiều, như: Năm Phỉ, Phùng Há, Sáu Nết, Thanh Loan, Thanh Nga...
Thậm chí, đến tận năm 2007, Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang còn đầu tư vở “Kim Vân Kiều” hoành tráng với sự tham gia của 500 diễn viên, nhạc công... thuộc các thế hệ. Đặc biệt, chỉ riêng vai Thúy Kiều qua 7 phân cảnh đã được thể hiện bởi nhiều nghệ sĩ từng đóng vai nàng Kiều: Lệ Thủy, Thoại Mỹ, Phượng Hằng, Thanh Thanh Tâm, Tú Sương, Mỹ Hằng, Thanh Ngân.
Khai mở cuộc cách mạng...
Ngay từ khi mới ra đời, cải lương đã lấy cảm hứng từ Truyện Kiều để sáng tác kịch bản. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, đó không phải là sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà là tất yếu lịch sử. Theo TS. Nguyễn Thanh Phong, thập niên đầu thế kỷ 20, giáo dục phương Tây dần lớn mạnh, đời sống kinh tế đang tư bản hóa... Trong khi đó, văn học nghệ thuật nói chung, sân khấu nghệ thuật dân tộc đang theo lối mòn của tuồng xưa với mô típ trung - hiếu, vua - tôi... Những tiền đề đó đã đòi hỏi sân khấu tìm hướng đi mới để đáp ứng nhu cầu thưởng thức mới của công chúng.
Trong bối cảnh đó, với lợi thế ngôn ngữ trong sáng, gần gũi lời ăn, tiếng nói dân tộc, đặc biệt là chính thể thơ lục bát của tác phẩm, thể thơ đặc trưng của dân tộc, giàu âm thanh và nhịp điệu, tiện lợi cho soạn giả chuyển thể sang các làn điệu trong tuồng cải lương... Truyện Kiều được xem như lựa chọn hàng đầu. Nói cách khác, Truyện Kiều là chất liệu, là ngòi nổ cho cuộc Cách mạng sân khấu Nam Bộ và kết quả là cải lương ra đời.
Thú vị hơn, Truyện Kiều còn là tác phẩm văn chương mang sứ mệnh kỳ lạ bậc nhất nền văn học Việt Nam. Không chỉ là mang đến sân khấu Nam Bộ diện mạo mới, Truyện Kiều còn căn nguyên để khai mở cuộc Cách mạng trong đời sống dân tộc, tuyên truyền, khơi gợi lòng yêu nước trong dân. Học giả Vương Hồng Sển trong tác phẩm “50 năm mê hát” đã viết: “Buổi sơ khởi của cải lương là do lòng ái quốc mà nên”.
Đồng tình với nhận định này, nhà nghiên cứu Hà Văn Cầu trong tác phẩm “Phong cách và thi pháp trong nghệ thuật cải lương” đã nhận xét: “Cải lương là sản phẩm tinh thần của lòng yêu nước”.Theo ông Cầu, Nam Bộ là vùng đất bị Pháp đô hộ sớm và cũng là miền đất dựng cờ chống ngoại xâm sớm nhất và mãnh liệt nhất. Tuy nhiên, trước kẻ thù quá mạnh về quân sự, sau thời gian đầu quật khởi, các sĩ phu - bộ phận trí thức của nhân dân đã lui về vùng nông thôn để tìm hướng đi mới cho hành trình ái quốc.
Với tinh thần “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm; Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, nhiều người đã lựa chọn việc cải biên tác phẩm văn chương mang đậm hồn dân tộc là Truyện Kiều làm căn nguyên cho hành động. Với hình ảnh người phụ nữ “liễu yếu đào tơ” nhưng dám hy sinh tình riêng để cứu cha và em trai bị bắt và đánh đập oan ức.., được các sĩ phu gởi gắm lời kêu gọi nhân dân “tỉnh thức” trước cảnh bắt bớ, đánh đập, ức hiếp dân tộc của kẻ thù... Vì thế, đằng sau những câu hát giàu tiết tấu của cải lương Truyện Kiều, còn là lời hịch về lòng yêu nước: “Nghĩ tới thôi, ngẩn ngơ cho phận; Sống thừa chi đây, Chi đây mà chẳng thảo thân; Đâu há lại làm thinh, dễ thẹn kiếp sinh” (“Kiều du thanh minh” - Phạm Đình Khương).
Trên những nẻo đường nghệ thuật
Khi đến Nam Bộ, Truyện Kiều như biến mình thành nguồn phù sa màu mỡ để lan tỏa đắp bồi muôn nẻo đường nghệ thuật. Không chỉ khai mở, tạo cảm hứng cho những vở cải lương, Truyện Kiều còn được nhiều soạn giả vay mượn đề tài để thổ lộ đầy đủ cung bậc cảm xúc trong các vở tuồng khác. Nổi bật là vở “Tang Đại giả gái” của soạn giả Mộng Trần Nguyễn Văn Là, xuất bản tại Sài Gòn năm 1925: “Chốn sông Tiền, may gặp vãi Giác Duyên; Khi tái ngộ cũng ướm toan nuốt quyền, Dạ bao đành như vậy hỡi nàng ôi!”.
TS. Nguyễn Thanh Phong còn cho biết thêm: “Nhiều làn điệu ở Nam Bộ lấy đề tài từ Truyện Kiều”. Nàng Kiều và các nhân vật xoay quanh cuộc đời dâu bể, như Từ Hải, Kim Trọng... được nhiều soạn giả đưa vào các làn điệu trong “Tứ tài tử”, “Lục tài tử”, hay các bài theo điệu Hành vân... Các sáng tác này còn tinh tế gởi gắm ý lòng ái quốc trước cảnh “nước mất, nhà tan”. Trương Duy Toản, tác giả của cải lương “Kim Vân Kiều” đầu tiên cũng viết bài “Hành vân” về tâm sự của Từ Hải. Từ nguyên tác “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, soạn giả đã chuyển tải thành: “Vẫy vùng cho sóng dậy trần ai, Tài oanh liệt, mấy ngọn gươm vàng; Rạch một sơn hà mặc dầu ngang dọc, Giữa trời đây sợ ai”. Ở đây không chỉ có sáng tạo nghệ thuật, mà còn là sự sáng tạo về tuyên truyền tinh thần yêu nước, cài cắm vào đó khát vọng bất khuất...
Truyện Kiều còn truyền cảm hứng để sinh ra làn điệu làm thăng hoa sân khấu cải lương - “đứa con cưng” của mình. Đây là điều mà có lẽ đến nay chưa có tác phẩm văn học nào có được. Điển hình là điệu “Vọng Kim Lang” (mong nhớ chàng Kim Trọng). Từ cảm xúc Truyện Kiều, nhạc sĩ Hoàng Lê (1924 - 1987), nguyên Chủ nhiệm bộ môn Dân ca - Trường trung học Văn hóa Nghệ thuật Bình Định những năm 1980 đã sáng tác “Vọng Kim Lang” trên nền điệu dân ca Bài chòi. Từ nguyên tác: “Liêu Dương cách trở sơn khê, Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang...”, nhạc sĩ đã cải biên thành: “Chốn Liêu Dương cách trở muôn trùng; Trông theo chàng từ bóng ngựa khuất quan san...”.
Đến năm 1978, hai nhạc sĩ Thanh Hải và Văn Giỏi đã thêm một số nốt để phù hợp với phong cách cải lương, thì “Vọng Kim Lang” như “hổ thêm cánh”. Cùng với điệu “Đoản Khúc Lam Giang” và “Phi Vân Điệp Khúc” tạo nên thế chân vạc âm nhạc cải lương đến mức nhiều soạn giả xem như bài bản bắt buộc khi viết một vở tuồng mới. Hơn thế nữa, “Vọng Kim Lang” còn được xã hội đón nhận như đứa con của cộng đồng để rồi tự mỗi người ký gửi lời vào khung nhạc đó tâm tư, tình cảm... Sự việc diễn ra một cách tự nhiên và nhanh chóng phổ cập đến mức hiện có hàng trăm lời cho điệu “Vọng Kim Lang” được lưu hành dưới nhiều hình thức.
Đó cũng là con đường dân gian hóa ca khúc mà “Bóng em qua cầu” của nhạc sĩ Phạm Lý trở thành “Lý qua cầu”, hay “Trên quê hương Minh Hải” của nhạc sĩ Phan Nhân chuyển thành “Lý Năm Căn” và “Son sắt một lòng” của nhạc sĩ Đắc Nhẫn thành “Lý son sắt”.... Điều này như chỉ báo cho thấy Truyện Kiều đã nhuần thấm vào mạch văn hóa của vùng đất Nam Bộ và người Nam Bộ xem Truyện Kiều như tài sản của vùng đất. Đó là mối lương duyên đặc biệt!
(Bài đăng trên Ấn phẩm đặc biệt Lao Động Cuối Tuần Xuân Ất Tỵ)
Đọc bài gốc tại đây.