Từ thập niên 1990, PGS Nguyễn Thị Phượng và nhóm nghiên cứu phát hiện gene bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, giúp ngừa bệnh xuất hiện ở thế hệ tương lai.
Hàng chục năm về trước, bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne là một thách thức lớn với ngành y tế Việt Nam vì chưa có phương pháp phòng, điều trị. Đây là bệnh lý di truyền liên kết với giới tính lặn, gene bệnh nằm trên nhiễm sắc thể X. Mẹ mang gene có thể truyền cho con trai.
Những đứa trẻ mắc bệnh thường biểu hiện từ 2-3 tuổi, với các triệu chứng chậm biết đi, đi lại yếu, dễ ngã. Từ 5-6 tuổi, bệnh tiến triển nặng hơn, các nhóm cơ ở cánh tay, đùi và mông teo nhỏ, còn cơ bắp chân và cẳng tay phì đại. Đến khoảng 13-15 tuổi, trẻ mất khả năng đi lại và có thể tử vong ở tuổi 18-20 do suy kiệt, suy tim hoặc nhiễm khuẩn. Các bác sĩ khi đó chỉ có thể đưa ra phác đồ điều trị giúp bệnh tiến triển chậm hơn.
Chứng kiến số lượng bệnh nhân bị loạn dưỡng cơ Duchenne đến viện ngày càng nhiều và hoàn cảnh khó khăn của các gia đình, TS Nguyễn Thị Phượng, Bệnh viện nhi Trung ương, trăn trở. "Chúng tôi luôn tự hỏi, nếu không chữa trị được thì làm thế nào để ngăn ngừa căn bệnh này xuất hiện trong các thế hệ tương lai", PGS Phượng chia sẻ.
Bà kể, ở thập niên 1990, kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, điều kiện nghiên cứu khoa học tại Việt Nam rất hạn chế, các kỹ thuật phân tử chưa có điều kiện phát triển. TS Phượng và đồng nghiệp đã đi những bước đầu tiên trong nghiên cứu bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, đó là mô tả lâm sàng của bệnh.
Ở bệnh nhân Duchenne, enzym Creatinine-Kinase (CK) tăng rất cao trong máu khi chưa có triệu chứng lâm sàng, nó tồn tại suốt thời gian bị bệnh. CK giảm trong giai đoạn cuối của bệnh, khi các cơ teo hết. Như vậy có thể xét nghiệm để chẩn đoán sớm bệnh.
Ở những người phụ nữ mang gene bệnh, CK cũng tăng cao từ gấp đôi cho đến hàng chục lần. Vì thế, có thể sử dụng CK để phát hiện người lành mang gene bệnh. "Đây là phương pháp sinh hóa đơn giản, chi phí thấp, phù hợp với điều kiện Việt Nam thời bấy giờ". PGS Phượng nói.
Từ năm 1996, nhóm bắt đầu công bố các kết quả nghiên cứu ban đầu như đặc điểm di truyền của bệnh teo cơ Duchenne, hay khả năng phát hiện người lành mang gene bệnh. Năm 1999, TS Nguyễn Thị Phượng tiếp tục nghiên cứu về phát hiện đột biến gene dystrophin gây bệnh Duchenne ở trẻ em Việt Nam. Bà cho biết, thời điểm đó việc tìm kiếm đột biến gene gặp nhiều khó khăn, phải gửi mẫu ra nước ngoài phân tích, tỷ lệ thành công không cao.
Không dừng lại ở đó, từ năm 2001-2003, TS Phượng cùng đồng nghiệp đã sử dụng phương pháp định lượng enzym Creatinine - Kinase huyết thanh để phát hiện người lành mang gene bệnh cho mẹ hay chị em gái của mẹ của bệnh nhân. Đây là vấn đề nghiên cứu thuộc đề tài cấp Nhà nước do GS.TS Trịnh Văn Bảo, Trưởng Bộ môn Y sinh học di truyền, trường Đại học Y Hà Nội làm chủ nhiệm.
Nhóm nghiên cứu đã chọn 122 gia đình có con bị Duchenne, ưu tiên các gia đình có người từng tham gia chiến đấu tại vùng bị rải chất độc hóa học. Tuy nhiên, chỉ có 76 gia đình tham gia. Nhóm đã xét nghiệm CK cho 148 thành viên nữ, phát hiện 44 người có chỉ số CK huyết thanh tăng cao, được xác định là người lành mang gene bệnh và được tư vấn.
Bằng phương pháp định lượng CK, nhóm nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Phượng đã giúp phát hiện người lành mang gene bệnh, giúp cho công tác tư vấn di truyền đạt hiệu quả, góp phần quan trọng trong phòng bệnh. Bệnh nhân và các thành viên trong gia đình sẽ được lưu hồ sơ bệnh án ở phòng tư vấn di truyền.
Những nỗ lực không ngừng nghỉ của PGS Nguyễn Thị Phượng và các cộng sự đã góp phần thay đổi nhận thức và cách tiếp cận với bệnh di truyền ở Việt Nam. Nghiên cứu đã giúp xác định được khoảng 1.300 gia đình mắc bệnh. Năm 2012, đề tài "Phát hiện người lành mang gene bệnh bằng phương pháp định lượng enzym Creatinine-Kinase huyết thanh" do bà chủ trì là một trong sáu đề tài nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước của GS Trịnh Văn Bảo được tặng Giải thưởng Nhà nước.
PGS.TS Vũ Chí Dũng, Giám đốc Trung tâm Nội tiết - Chuyển hóa - Di truyền và Liệu pháp phân tử cho biết, các nghiên cứu chẩn đoán bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne và phát hiện người mang gene bệnh là nền tảng quan trọng cho việc lựa chọn các phương pháp điều trị đặc hiệu. Những phương pháp như thay thế gene (mini-dystrophin) hay sửa chữa gene chữa bệnh, vốn đã được ứng dụng trên thế giới, đang mở ra hy vọng mới cho người bệnh. Tuy nhiên, để giải pháp này phát huy hiệu quả, việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh và theo dõi lâm sàng là điều không thể thiếu.
Các phương pháp chẩn đoán hiện đại hiện nay như MLPA phát hiện mất đoạn lớn của gene; giải trình tự thế hệ mới đang được ứng dụng rộng rãi trong chẩn đoán có những ưu điểm vượt trội. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các kết quả vẫn khó đưa ra kết luận cuối cùng. Với sự kết hợp với các phương pháp truyền thống như đo nồng độ CK sẽ giúp định hướng trong chẩn đoán với người bệnh không có tiền sử gia đình; giúp hỗ trợ phiên giải kết quả xét nghiệm genee bằng phương pháp mới.
"Theo dữ liệu hiện nay, có khoảng 1300 gia đình mắc bệnh đã được xác định. Việc xác định người mang gene bệnh có ý nghĩa lớn trong phòng bệnh thông qua chẩn đoán tiền làm tổ. Xác định nồng độ CK cũng đang được sử dụng trong sàng lọc sơ sinh bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne ở một số nước", PGS Dũng nói.
Ngày nay, xét nghiệm CK vẫn là phương pháp phổ biến để phát hiện người lành mang gene bệnh vì giá rẻ và có thể làm được nhiều nơi. Bên cạnh đó, y học hiện đại đã tiến xa với khả năng phát hiện đột biến gene bằng công nghệ phân tử, mở ra nhiều hy vọng trong điều trị và phòng bệnh di truyền bằng phương pháp tư vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh.
PGS.TS Nguyễn Thị Phượng, 79 tuổi, quê Quảng Trị, đã có hành trình gần hai thập kỷ nghiên cứu về bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne.
Năm 1972, bà tốt nghiệp bác sĩ tại đại học Y khoa Hà Nội và ở lại trường làm cán bộ giảng dạy tại bộ môn nhi. Sau đó một năm, bà được Bộ môn phân công đi về phân môn di truyền và được đào tạo về chuyên ngành di truyền tại khoa Sinh học, trường Đại học Tổng hợp.
Năm 1989, bác sĩ Nguyễn Thị Phượng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về di truyền học tại Đại học tổng hợp Karlova Praha, Tiệp Khắc. Trở về nước, năm 1990 bà công tác tại khoa Nội tiết - Chuyển hóa - Di truyền, Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em (nay là Bệnh viện Nhi Trung ương). Từ đó đến khi nghỉ hưu năm 2007, bà tập trung nghiên cứu về các bệnh di truyền hay gặp như Hội chứng Down, các bệnh rối loạn nhiễm sắc thể như hội chứng Turne, Klinefelter... các bệnh di truyền do đột biến gene về cơ, xương, bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh và các dị tật bẩm sinh. Bên cạnh đó, bà cũng nghiên cứu về chuyên ngành nhi chung.
PGS Nguyễn Thị Phượng đã chủ trì hai đề tài nhánh cấp nhà nước về bệnh dưỡng cơ Duchenne, và đề tài cấp nhà nước về nghiên cứu sức khỏe và tuổi dậy thì ở trẻ em, thực hiện 20 đề tài cấp cơ sở. Ngoài ra, bà đã công bố 34 bài báo trên các tạp chí y học uy tín.
Nhật Minh
Đọc bài gốc tại đây.